THIÊN THỂ NGC 0001-0005

THIÊN THỂ NGC 0001-0005

Ở bài viết trước chúng ta đã tìm hiểu sơ lược về danh mục NGC, ở bài viết này (và những bài viết sau) sẽ đi chi tiết từng thiên thể được đề cập trong danh mục.
Để cho gọn thì Altair sẽ không viết các số 0 ở đầu nhé!

1. NGC 1
NGC 1 được phát hiện bởi Heinrich Louis d'Arrest vào 30/11/1861, quan sát lần đầu vào năm 1860 khi ông đang thử nghiệm chiếc kính thiên văn khúc xạ 11 inch của Đài thiên văn Copengahen. Ông đã mô tả phát hiện của mình là một vật thể "mờ nhạt, nhỏ, tròn, nằm giữa các ngôi sao có cấp sao 11 và 14 (ở phía Bắc và phía Nam của nó)".

NGC 1 khi quan sát có vẻ nằm khá gần NGC 2 (hình ảnh, NGC 1 ở giữa và NGC 2 ở dưới). Tuy nhiên đây lại là 2 vật thể riêng biệt không liên quan đến nhau, nằm cách xa nhau trong thực tế. Trong lần đầu quan sát NGC 2 đã bị hiểu nhầm là "bạn đồng hành" của NGC 1.

Về đặc điểm, NGC 1 là một thiên hà xoắn ốc loại SAB(s)bc (xem thêm tại bài "Phân loại hình thái thiên hà" hay "Morphological Type"), có kích thước biểu kiến 1.6'x1.2', cách chúng ta khoảng 210-215 triệu năm ánh sáng, nằm tại chòm Pegasus hay Phi Mã. Với độ sáng biểu kiến (cấp sao biểu kiến) là 13.65, NGC 1 quá mờ nhạt để có thể quan sát bằng mắt thường trên bầu trời đêm.

Với đường kính khoảng 140.000 năm ánh sáng, NGC 1 có kích thước gần bằng với Milky Way (được cho là có đường kính xấp xỉ 160.000 năm ánh sáng). Trong thời điểm lập danh mục thì nó là thiên hà có xích kinh thấp nhất, vì vậy khi sắp xếp, NGC 1 trở thành "thành viên" đầu tiên được liệt kê. Tuy vậy tọa độ đã thay đổi, nó không còn là thiên thể có xích kinh thấp nhất nữa.

NGC 1 còn có các tên gọi khác: GC 1, UGC 57, PGC 564, Holm 2a, MCG+04-01-025
Xích kinh: 00h 07m 15.84s
Xích vĩ: +27d 42m 29s

2. NGC 2
NGC 2 được phát hiện bởi Lawrence Parsons, Bá tước thứ 4 của Rosse, vào ngày 20/08/1873. Nó được mô tả là một vật thể "rất mờ, nhỏ, nằm phía Nam của NGC 1" (hình ảnh bên trên).
 
Về đặc điểm, NGC 2 là một thiên hà xoắn ốc loại SABbc, kích thước biểu kiến 1.0'x0.6' đường kính chỉ vào khoảng 115.000 năm ánh sáng nhưng sáng gấp 3-5 lần Dải Ngân hà. Khoảng cách vào khoảng 350-355 triệu năm ánh sáng tính từ Trái Đất, nằm trong chòm Pegasus. Với độ sáng biểu kiến là 14.96, NGC 2 cũng không quan sát được bằng mắt thường trên bầu trời đêm. 

NGC 2 còn có các tên gọi khác: GC 6246, UGC 59, PGC 567
Xích kinh: 00h 07m 17.1s
Xích vĩ: +27d 40m 42s

3. NGC 3
NGC 3 được phát hiện bởi Albert Marth vào ngày 29/11/1864. Nó được liệt kê vào danh mục NGC qua việc "sao chép" trực tiếp từ bài báo của William Lassell năm 1866 về các quan sát của ông tại Malta, trong đó có cả khám phá của Marth. NGC 3 được mô tả là một vật thể "mờ nhạt, rất nhỏ, tròn và gần giống 1 ngôi sao".

NGC 3 là một thiên hà hình hạt đậu hay thiên hà thấu kính (kiểu hình thái nằm giữa thiên hà elip và thiên hà xoắn ốc) loại SAB(rs)a.Với kích thước biểu kiến 1.1'x0.6', chiều ngang khoảng 50.000 năm ánh sáng và độ sáng biểu kiến là 14.2, nó cũng tương tự với các vật thể xa khác, không thể quan sát bằng mắt thường. Dựa vào dịch chuyển đỏ của vật thể, khoảng cách giữa nó và chúng ta được tính toán, rơi vào khoảng 180-185 triệu năm ánh sáng, nằm ở chòm Pisces hay Song Ngư.

NGC 3 còn có các tên gọi khác: UGC 58, PGC 565, GC 5080
Xích kinh: 00h 07m 16.8s
Xích vĩ: +08d 18m 06s


4. NGC 4
NGC 4 được phát hiện bởi Albert Marth vào ngày 29/11/1864 tương tự như NGC 3 (Marth đã quan sát chúng trong cùng 1 đêm). Ông đã miêu tả nó là một vật thể "cực kì mờ nhạt". Trong một khoảng thời gian NGC 4 đã bị nhầm lẫn với PGC 620, mặc dù đã được chỉnh sửa nhưng việc chỉnh sửa này chưa được phổ biến. Vì vậy để có thể nhận dạng chính xác NGC 4, thường sẽ sử dụng tọa độ của nó hoặc kí hiệu PGC 212468.

NGC 4 là một thiên hà thấu kính loại So/a nằm trong chòm Pisces. Độ sáng biểu kiến của nó là 16.8, kích thước biểu kiến là 0.6'x0.15' khoảng cách chưa xác định vì vậy chiều ngang của nó vẫn chưa thể tính toán.

NGC 4 còn có các tên gọi khác: PGC 212468, GC 5081 
Xích kinh: 00h 07m 24.4s 
Xích vĩ: +08d 22m 26s

5. NGC 5 
NGC 5 được phát hiện bởi nhà thiên văn học Pháp Edouard Stephan vào ngày 21/10/1881 khi ông đang ở Đài quan sát Marseille. Ông đã miêu tả nó "rất mờ nhạt, rất nhỏ, hạt nhân tương đương với ngôi sao có cấp sao 13-14"


NGC 5 là một thiên hà elip kiểu E/So, cách chúng ta khoảng 235-240 triệu năm ánh sáng, nằm ở khu vực chòm Andromeda hay Tiên Nữ. Kích thước của nó vào khoảng 1.15'x0.8', chiều ngang khoảng 80.000 năm ánh sáng và độ sáng biểu kiến 14.33, không thể nhìn thấy khi quan sát bằng mắt thường trên bầu trời đêm. 

NGC 5 còn có tên gọi khác: PGC 595
Xích kinh: 00h 07m 48.9s
Xích vĩ: +33d 18m 31s

Comments